Phát triển không gian ngầm tại nội đô Hà Nội ?
Publish date 24/09/2017 | 11:06 AM  | View count: 1587

Khi đô thị hóa đã đạt trên 70, 80% việc khai thác phát triển đô thị theo chiều cao thì việc chuyển hướng sang khai thác chiều sâu (không gian ngầm) của đô thị là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, vấn đề khai thác không gian ngầm không thể thực hiện tùy tiện mà cần có quy hoạch, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn đáp ứng tầm nhìn xa.

Trên thực tế, từ hơn chục năm trước, trong pháp lệnh thủ đô từ năm 2005, Chính phủ đã ra quyết định phải chú trọng không gian ngầm góp phần xây dựng diện mạo đô thị văn minh hiện đại. Tuy nhiên, phải đến năm 2007, định hướng quản lý phát triển công trình ngầm đô thị mới được cụ thể hóa bằng một số Nghị định cũng như Quy chuẩn xây dựng quốc gia.

Từ đây, khái niệm không gian ngầm của đô thị không chỉ là hệ thống đường dây, đường ống, các tuyến đường tầu điện ngầm, bãi để xe, hầm đường ô tô, đường bộ mà còn có thể là những tổ hợp trung tâm thương mại, sinh hoạt công cộng, vui chơi giải trí, những công trình đa chức năng trong đó thậm chí hướng tới là nơi làm việc, nơi ở cho dân cư đô thị.

Một không gian huyết mạch thứ hai nằm toàn bộ dưới lòng đất sẽ trả lợi không gian mặt bằng cây xanh, công viên, giảm thiểu sự bí bách do sự xuất hiện ồ ạt của các tòa cao ốc chọc trời như hiện nay. Chưa kể, các hệ thống giao thông ngầm còn giải phóng tình trạng ách tắc về hệ thống giao thông công cộng, rút ngắn khoảng thời gian di chuyển giữa các đô thị vệ tinh và trung tâm, làm tăng giá trị của các dự án bất động sản xa trung tâm.

Trong vòng hơn 10 năm vừa qua, dựa trên định hướng như vậy, Hà Nội đã có không ít các công trình không gian ngầm được triển khai như hệ thống cống ngầm, hệ thống cấp thoát nước ngầm, đường dây cáp điện ngầm, bãi đỗ xe ngầm hay một trung tâm thương mại ngầm với quy mô lớn như Royal City, Vincom Mega Mall Times City, Vincom Plaza,…Tuy nhiên, hầu hết mới mang tính cục bộ, chỉ khai thác cho một mục đích riêng chứ chưa có sự liên kết tổng thể cho cả khu vực hay một đô thị. Và điều này cho thấy, việc quản lý còn thiếu tầm nhìn dài hạn và chưa có định hướng tổng thể.

Một trong những ví dụ điển hình cho sự lãng phí khi quản lý thiếu tầm nhìn dài hạn và chưa có định hướng tổng thể là câu chuyện hầm bộ hành ở thủ đô bị bỏ hoang, xâm lấm trong nhiều năm trời. Mặc dù được đầu tư hàng triệu USD để giúp người dân qua đường an toàn, nhưng thực tế, hiệu quả mang lại của hệ thống này gần như số "0" khi rất ít người qua lại.

Một phần vì chất lượng thi công, và một phần vì thiếu các hoạt động giám sát đảm bảo an toàn cho người đi bộ như bảo vệ hay camera giám sát,….Do đó, thay vì đi dưới hầm ngầm, người đi bộ bất chấp mạo hiểm tính mạng vẫn băng qua đường để đi. Chưa kể, hệ thống hầm ngầm đi bộ này thực tế không hề có tính kết nối với bất kỳ hợp phần đô thị ngầm nào khác ở Hà Nội, ngoại trừ vỉa hè hai bên đường.

Các hầm đi bộ bỏ hoang là những hậu quả từ việc thiếu tầm nhìn phát triển không gian ngầm dài hạn

Theo phân tích của  Tiến sĩ Sử Ngọc Khương, Giám Đốc Đầu tư, Savills Việt Nam, tại các quốc gia trên thế giới, quy hoạch hệ thống đô thị ngầm gần như hình thành song song với việc phát triển các tuyến metro ngầm, nhờ đó nó tạo nên những thay đôi lớn cho đô thị của các quốc gia. Chẳng hạn như như thành phố ngầm RESO ở TP Montreal - Canada. Với hệ thống đường ngầm dài 32 km với diện tích tương đương 41 dãy phố bên dưới Montreal, RESO kết nối khoảng 80% khu văn phòng và 35% khu thương mại ở trung tâm thành phố.

Còn ở xứ sở mặt trời mọc, mạng lưới đô thị ngầm điển hình như Crysta Nagahori ở thành phố Osaka với tổng diện tích hơn 81.000 m2, trải dài qua quận Umeda, Namba và Shinsaibashi đã thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của hệ thống bán lẻ. Chỉ riêng quận Umeda đã bao gồm hơn 1.200 cửa hàng bán lẻ và nhà hàng, các ga tàu điện ngầm.

Đối với quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, kinh nghiệm xây dựng đô thị ngầm của các nước trên thế giới sẽ là bài học quý giá đối với các đô thị lớn tại nước ta. Đây cũng là khuynh hướng phát triển đô thị nén (Compact city) cho các thành phố lớn ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, đây là một xu thế tất yếu theo quỹ đạo phát triển đô thị hiện đại khi những thành phố lớn sẽ phát triển theo chiều dọc để vẫn có thể đảm bảo sự thuận tiện về thời gian đi lại cho cư dân. Đây cũng là giải pháp tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, giải quyết được áp lực khi mật độ xây dựng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho bảo tồn di sản đô thị, cảnh quan văn hóa, giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện môi trường sinh thái. 

Cần sớm có định hướng cụ thể dựa trên những nghiên cứu và xem xét rất kỹ lưỡng 

Dẫu vậy, theo TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm, khi đã là xu thế phát triển bền vững thì rất cần có định hướng và công cụ quản lý. QHKGN là bước đi cần thiết đầu tiên cần xác lập sau quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến 2030 tầm nhìn đến 2050 đã được phê duyệt. "Chúng ta đã đặt vấn đề và có kế hoạch lập QHKGN Hà Nội, song đây là loại hình quy hoạch mới liên quan đến đa ngành chịu tác động của không gian trên mặt đất và mức độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Do vậy cần có những phương án có bước đi thích hợp, lựa chọn bài học kinh nghiệm của nước ngoài và ứng dụng khoa học kĩ thuật hiện đại" ông Nghiêm cho biết.

Theo quy định hiện hành, quy hoạch KGN có hai loại: quy hoạch chung KGN được lập cho đô thị và quy hoạch chi tiết KGN được lập cho một khu vực đô thị hoặc một chuyên ngành kỹ thuật. Ở đây nội dung của quy hoạch chung về KGN phải giải quyết được các yêu cầu: Dự báo nhu cầu phát triển; Phân khu vực để xây dựng công trình ngầm; Xác định rõ khu vực hạn chế, khu vực cấm xây dựng; Xác định hệ thống giao thông ngầm (Hướng tuyến, nhà ga, bãi đỗ xe,...); Xác định hệ thống hào kỹ thuật, cấp thoát nước, truyền tải điện; Xác định khu vực xây dựng công trình công cộng ngầm.

Đáp ứng được các yêu cầu trên, Thủ đô Hà Nội đã có KGN cục bộ, đã có quá trình xây dựng công trình trên mặt đất trải qua nhiều giai đoạn phát triển với độ bền vững khác nhau, hơn nữa có điều kiện địa chất thủy văn phức tạp thì rất cần có quy trình nghiên cứu thích hợp, khoa học với sự tham gia của đa ngành.

Để thực hiện QHKGN với Hà Nội, trước mắt cần phải tổng hợp đánh giá hiện trạng về xây dựng công trình trên mặt đất và KGN cục bộ đã có. Nhiều KGN còn hồ sơ lưu trữ như mạng lưới cống ngầm xây dựng từ thời Pháp thuộc, hay cải tạo xây dựng mới gần đây, mạng lưới ngầm đường dây cáp điện, thông tin hoặc KGN của một số công trình đã xây dựng trên mặt đất. Song cũng còn không ít KGN cần điều tra, tổng hợp. Làm tốt được công đoạn này không chỉ cần phối hợp từ các ngành, từ cơ quan lưu trữ mà còn cần sự tham gia của các chủ đầu tư, chủ sở hữu.

Cùng với lập QHKGN cũng phải nghiên cứu để đề xuất cụ thể các cơ chế chính sách liên quan như cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình ngầm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chính sách trả tiền thuế đất nếu xây dựng công trình ngầm nhằm mục đích kinh doanh, chính sách hỗ trợ, ưu đãi một số loại KGN để khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia đầu tư xây dựng KGN cấp bách như bãi đỗ xe ngầm , công trình đầu mối kỹ thuật ngầm hào kỹ thuật ngầm... Xây dựng được đồng bộ về cơ chế chính sách về KGN là tạo nguồn lực để QHKGN có tính thực tiễn.

Theo Reatimes.vn